Sự Khác Nhau Giữa Cứu Chuộc & Cứu Rỗi

 CỨU CHUỘC VÀ CỨU RỖI

Thông thường hiểu được từ cứu rỗi đồng nghĩa đã có một vé vào thiên đàng; yên tâm không cần suy nghĩ hay phấn đấu thêm rắc rối.

Động từ cứu và cứu chuộc thông thường hiểu như là một, vì chung chữ cứu. Trong tiếng Anh thì khác nhau:

  • Cứu rỗi: to save.
  • Cứu chuộc: to redeem – to purchase.

Cứu chuộc một lần đủ cả; tin và chịu báp-tem một lần đủ cả.

Cứu rỗi thì liên tục, mỗi lúc, mỗi nơi, còn kéo dài cho đến khi về với Chúa; và sẽ kết thúc sau 1000 năm bình an.

I / CỨU CHUỘC LÀ GÌ ?

1. Định nghĩa cứu chuộc là gì?

Cứu chuộc, chuộc mua nói đến cái giá phải trả theo yêu cầu của người sở hữu để nhận lại cái mình cần, hay cái đã mất.

Chúa Jesus chuộc chúng ta bằng mạng sống của Ngài, bằng huyết vô tội của Ngài cho  Sa-tan mà trước đây tổ phụ chúng ta, Adam đã bán cho nó.

“Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài”  – Ê-phê-sô 1:7

Cứu chuộc đi trước, cứu rỗi  theo sau.

Ví dụ: Tôi có người con bị bắt cóc. Bọn khủng bố đòi chuộc một tỉ. Tôi đáp ứng đòi hỏi để chuộc lại con tôi, và con tôi được cứu khỏi chúng nó. Đó là cứu chuộc.

Cứu chuộc phải đi trước, cứu rỗi (thoát theo) theo sau…

2. Cứu chuộc trọn vẹn

Chúa đã cứu chuộc chúng ta bằng huyết Ngài, đưa chúng ta vào vương quốc Ngài. Nhưng thân thể hay chết chúng ta vẫn còn bị chi phối bởi luật tổ phụ: Phải còn phải chết một lần rồi chịu phán xét.

Vì vậy, sự cứu chuộc chưa được trọn vẹn; khi nào Chúa tái lâm và thân thể chúng ta được biến hóa giống như Chúa thì sự cứu chuộc mới trọn vẹn.

Xem thêm bài: Tiến trình Chúa tái lâm và 1000 năm bình an.

“Cầu xin tâm linh, tâm hồn, và  thân thể anh em được giữ vẹn toàn, không chỗ trách được khi Chúa chúng ta, là Jesus Christ quang lâm!” – I Tês 5: 23

II/ CỨU RỖI

1. Cứu rỗi là gì? Cứu cái gì?

Cứu rỗi là ngoại động từ, tự nó không xác định được ngữ nghĩa; nên cần có trợ động từ kèm theo để bổ nghĩa chính xác cho động từ cứu. Rỗi là trợ động từ (Adv).

Bản dịch tiếng Việt có lúc sử dụng trợ động từ rỗi như là động từ, thay động từ cứu  “ai tin thì được rỗi; chuẩn xác phải là “được cứu rỗi”.

Chúng ta có thể đặt câu hỏi Cứu cái gì? Cứu ai? Cứu bằng cách nào?… vấn đề sẽ rõ ngay.

Động từ cứu có nhiều ý nghĩa; tùy theo ngữ cảnh của trợ động từ, mới xác định cứu ai, cứu cái gì, cứu cách nào.

Có thể cứu ra khỏi một hoàn cảnh, một nan đề, cứu khỏi bệnh tật, hay dịch lệ thiên tai…

Cứu để được tái sinh, cứu được thánh hóa, hay cứu vào vương quốc đồng trị 5 thành 10 thành; lãnh mão triều thiên…

Trong toàn bộ Kinh thánh, từ cứu xuất hiện từ sáng thế đến khải huyền rất nhiều.

Mỗi bối cảnh có ý nghĩa riêng. Tôi tạm phân biệt làm 4 trường hợp tiêu biểu.

 2. Hễ ai kêu cầu Danh Ta (Jesus) thì được cứu.

Đây là trường hợp tổng quát. Động từ cứu ở đây không liên hệ gì cứu rỗi, tái sinh hay cứu chuộc.

Có thể hiểu và dịch: “Hễ ai kêu cầu Danh Ta thì được giải cứu, hay cứu thoát (Rescuse)”  – Rô ma 10: 13

Cứu ở đây là giải cứu hay giải thoát ra khỏi một hoàn cảnh, một nan đề, bịnh tật hay một vấn đề cấp bách gì đó…

Chữ ai, hay bất cứ ai không biệt người đã tin hay chưa tin Chúa.

Ví dụ: Một người bị chìm tàu, bịnh tật, lạc vào rừng sâu… họ kêu Trời ơi! Chúa ơi! cứu con , cứu con với… Nhiều trường hợp Chúa vẫn cứu họ. Một hài nhi khóc la thảm thiết, Chúa cứu kỳ diệu.

Cứu ở đây không liên quan gì sự tha tội, sự tái sinh hay vương quốc Chúa.

Thế giới thường gặp những trường hợp được cứu rất hy hữu: Máy bay rơi độ cao hàng ngàn mét vẫn còn sống; sống dưới đống đổ nát 30 ngày vẫn không chết; bịnh nan y bịnh viện chê tự nhiên sống khỏe lại… Nhiều và rất nhiều trường hợp Chúa cứu con người, vì lòng xót thương của Ngài.

Thành Ni-ni-ve kêu cầu thảm thiết với lòng ăn năn thống hối, Chúa vẫn thay đổi tai vạ cho họ.

Các vua Chúa nhà Nguyễn thiết lập đền thờ Nam-giao để: “Cầu tự – cầu phúc – cầu an – cầu vũ” . Khi gặp năm hạn hán bất thường, vua xuống áo bào, cùng cả triều thần đi chân đất đến Nam-giao cầu vũ. Tất cả muôn dân người cầm trống, kẻ cầm phèn la vừa đi quanh làng, vừa hát: “Lạy trời mưa xuống – lấy nước tôi uống-  lấy ruộng tôi cày ”. Chúa thường ban mưa xuống kịp thời.

Nhiều nhà thần học hiểu lầm, hay rối trí câu:

Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Đức Chúa Trời; vả, nếu khởi từ chúng ta, thì sự cuối cùng của những kẻ chẳng vâng theo Tin lành Đức Chúa Trời sẽ ra thế nào? Lại nếu người công bình còn khó được rỗi, thì những kẻ nghịch đạo và có tội sẽ trở nên thế nào?  – I Phi-e-rơ 4: 17-18

Mâu thuẫn với câu “Được cứu bởi đức tin – không phải bởi việc làm – Ai tin được cứu rỗi”

“Khó được cứu rỗi” ở đây liên hệ đến phần thưởng khi Chúa phán xét Hội thánh tại không trung; cứu ở đây không liên hệ đến sự cứu chuộc, hay sự phán xét để vào hồ lửa như người ngoại.

Một trường hợp khác, chính Chúa Jesus học tập:

“Khi Đấng Christ còn trong xác thịt, thì đã kêu lớn tiếng khóc lóc mà dâng những lời cầu nguyện nài xin cho Đấng có quyền cứu mình khỏi chết, và vì lòng nhân đức Ngài, nên được nhậm lời”

Một trường hợp khác, gây tranh luận:

“Dù vậy, người nữ sẽ được giải cứu trong lúc sinh con cái, nếu họ cứ tiếp tục sống đoan chính trong đức tin, trong tình yêu thương, và trong sự thánh khiết” – I Ti-mô-thê 2

Bản dịch cũ lại tối nghĩa nữa, “được cứu trong lúc sinh nở”.

Bản NIV dịch rất rõ “người nữ được giảm phần đau đớn trong lúc sinh nở.” – Hê-bơ-rơ 5:7

Câu kinh thánh “bất cứ ai kêu cầu Danh Ta sẽ được cứu” áp dụng cho mọi người, mọi hoàn cảnh.

3. Ai trung tín đến cuối cùng sẽ được cứu (Mat 24 :13)

Bối cảnh câu kinh thánh này Chính Chúa Jesus phán về những ngày cuối cùng  của 7 năm đại nạn. Ai giữ được tấm lòng của đức tin trung tín sẽ được giải cứu khỏi giờ  đại nạn, khỏi tuận đạo và được cất lên trời lúc còn sống.

Động từ cứu ở đây không liên quan đến sự tha tội, cứu chuộc, chỉ liên hệ đến sự trung tín, trọn thành với Phúc âm. Nếu trung tín đến cuối cùng sẽ được cất lên không trung gặp Chúa.

4. Tin để được tha tội – để được tái sinh

“Nhưng nói làm sao? Đạo ở gần ngươi, ở trong miệng và trong lòng ngươi. Ấy là đạo đức tin mà chúng ta giảng dạy. Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu; vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi “. – Rô-ma 10 : 8-10

Được cứu ở đây liên hệ sự ăn năn tội – được tái sinh – được làm con Chúa, tiếp nhận Chúa Jesus vào lòng.

Sau khi Adam phạm tội, đồng nghĩa tâm linh – tâm hồn – thân thể bị hư hoại, cần phải được cứu:

Cứu tâm linh: sprist

rằng, một người như thế phải phó cho quỉ Sa-tan, để hủy hoại phần xác thịt, hầu cho tâm  linh (spirit) được cứu trong ngày Đức Chúa Jêsus.

Cứu tâm hồn: soul

Vì cơn giận của người ta không làm nên sự công bình của Đức Chúa Trời. Vậy,hãy bỏ đi mọi điều ô uế và mọi điều gian ác còn lại, đem lòng nhu mì nhận lấy lời đã trồng trong anh em, là lời cứu được tâm hồn của anh em. Vậy,hãy bỏ đi mọi điều ô uế và mọi điều gian ác còn lại, đem lòng nhu mì nhận lấy lời đã trồng trong anh em, là lời cứu được tâm hồn (soul) của anh em” – Gia-cơ 1:-20-21

Hồn (linh hồn) được cứu, tân ước đề cập nhiều lần.

Thân thể được cứu: “Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? – Rô-ma 7:24

5. Cứu vào vương quốc – hay môn đồ hóa

Dân Y-sơ-ra-en được cứu vào đồng vắng, họ không đủ đức tin để được vào xứ Ca-na-an.

Chúa nói cho Giáo sư ni-cô-dem:

Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời. – Giăng 3:5

 Tiêu chuẩn để được cứu vào vương quốc như là một môn đồ đắc thắng, nhận được các mão triều, được bình bằng vàng phải trả giá rất cao. Không phải ai cũng được cứu, được nhận lãnh.

“Có đoàn dân đông cùng đi với Đức Chúa Jêsus; Ngài xây lại cùng họ mà phán rằng: Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta. Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo ta, cũng không được làm môn đồ ta. – Lu-ca 14

Được cứu làm môn đồ, liên hệ đến phần thưởng; không liên hệ đến sự cứu rỗi bởi ân điển phổ thông
Ai tin thì được cứu rỗi, nhờ ân điển bởi đức tin”.

Trong các bản dịch tiếng Việt, thuật ngữ cứu rỗicứu chuộc chung một chữ cứu. Trong tiếng Anh thì độc lập. Cứu rỗi là save (vi); cứu chuộc là Redeem hay Purchase.

Nếu dịch cứu chuộc là động từ ghép, không biết động từ nào đóng vai chính, động từ nào phụ. Nên dịch chuộc cứu, vì chuộc đóng vai chính, cứu đóng vai phụ. Đúng ra phải dịch chuộc khỏi  mới chuẩn xác.

Tổng kết:

Cứu chuộc, cứu rỗi là vấn đề quan trọng nhất của chúng ta. Chỉ có Chúa là Đức Chúa Trời mới có toàn quyền ban các sự cứu nầy; loài người chỉ bởi đức tin đưa tay tiếp nhận.

  • Cứu chuộc: Chúa Jesus đã làm một lần đủ cả trên thập tự.
  • Cứu rỗi: chúng ta  phải học tập hàng ngày, cho đến khi gặp Chúa. Cứu rỗi kết thúc sau 1000 năm bình an, nhất là cứu rỗi tâm hồn (biến đổi hồn).

 

Ngày 26 tháng 6 năm 2015

Mục sư : Nguyễn Duy Thắng

Mục sư Nguyễn Duy Thắng

Trang mạng Cơ Đốc không phân biệt hệ phái cùng nhau nhìn lại thực trạng thuộc linh “ xem mình sa sút từ đâu” mạnh dạn, can đảm nhìn sự thật để “ Làm lại từ đầu”, lấy lại niềm tin, nhận lại sức sống mới.

Leave a Reply

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.