II. CHÚA GỌI TÔI
Đêm giao thừa định mệnh 1984.
Những năm 80, tôi như con ngựa bất kham; thích là nói thích là làm. Giao thừa đầu xuân năm 1984 tôi cảm tác bài thơ ngông:
“Pháo nổ um sùm vui quá ta
Nhậu nhẹt lai rai tí gọi là
Thiên đường giờ Chúa chắc buồn nhỉ!
Trần thế em nay vui quá ta!”
Tôi đem bài thơ này đi khoe bạn bè gần xa, tự thấy mình, thi sỹ ngon lành tư tưởng hơn cả Cao Bá Quát, “Ngoảnh mặt lại Cửu Hoàng coi củng nhỏ”. Còn ta, ta vui hơn cả Thiên Chúa- trần thế vui hơn thiên đàng. Tôi tin không ai ngông cuồng vô lễ như tôi.
Ai kêu cầu danh Ta sẽ được cứu.
Cái gì đến, phải đến. Chỉ một năm, từ một người vốn hào hoa phong nhã, thành tên ăn mày đi bán từng lít bia hơi kiếm tiền ăn xôi buổi sáng. Bạn bè chí cốt “vô vô trong các cuộc vui thâu đem suốt sáng” đã cao chạy xa bay. Giờ chỉ còn lại ta với ta, với bài thơ khốn nạn.
Bao đêm không ngủ với khói thuốc cứ nối tiếp cháy trên môi. Tôi thấm thía cuộc đời là gì, địa ngục trần gian là gì. Tôi muốn chết, nhưng tôi không can đảm tự chết; hồn tôi như thi hào Vũ Hoàng Chương:
“Thấm thoát vào đây đã tháng tròn,
Lông hồng chưa nặng tợ bằng non
Một manh chiếu rách hồn vô tối
Ba bác cơm rau xác mỏi mòn
Đến bữa cơm ăn thường nhớ vợ
Đêm nằm giấc ngủ lại thương con
Bao nhiêu nước chảy qua cầu ấy
Dễ gì phai được tấm lòng son.”
Tuyệt vọng nhất, “Hãy nhận con đi, dù địa ngục hay thiên đàng”.
Địa ngục hay thiên đàng không liên quan gì với nỗi đau tận cùng của tôi. Tôi trở về với Chế Lang Viên:
“Tôi có chờ đâu, tôi có đợi đâu!
Nghe tin xuân đến gợi thêm sầu
Đối với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.”
Tôi như người tâm thần, tôi lang thang tìm rượu, tìm bạn hiền. Tôi nhớ lại người bạn vong niên, người đàn anh, cựu tu sỹ Đại Học Vạn Hạnh, Đại đức Thích Huệ Nhật. Hơn một năm trước vợ chồng anh Nhật, chị muộn đã làm chứng Chúa Jesus cho tôi. Nhưng tôi đem bài thơ tôi ra chọc, và hát “Chúa đã bỏ loài người”. Có nhiều lần anh nổi sùng, suýt đánh tôi… Tôi làm khổ anh Nhật nhiều lần, nhưng anh rất kiên nhẫn, truyền tình yêu Chúa cho tôi.
Vào một buổi chiều mùa đông, tôi đi chiếc PC đến nhà anh Nhật, với bộ mặt thảm sầu vợ bỏ. Vợ bỏ thật.
Tôi chỉ còn nói được “ai cho tôi bình an tôi tin” tôi sẵn sàng lạy cục đá, ổ mối, nếu được bình an.
Anh Nhật cầu nguyện cho tôi, hẹn tôi đến nhà thờ Lữ Gia gặp mục sư Lạc tiếp nhận Chúa. Tôi như gặp được cố nhân chiếc phao thần kỳ.
1. Đêm mưa tầm tả
Không biết số phận tôi gắng liền với mưa, sinh ra trong năm hồng thủy, lớn lên thì bão táp phong ba. Tôi không bao giờ quên, cái đêm bên ngoài mưa tầm tả, trong lòng lạnh buốt thấu xương; trận mưa cuối mùa đông 1984.
Tôi vồn vã đến sớm, anh Huệ Nhật nhiệt tình đưa tôi gặp Mục sư Võ văn Lạc, nhà thờ Lữ Gia gần nhà tôi.
Mục sư Lạc không phải làm chứng dài dòng cho tôi. Ông thấy nét mặt hốc hác, buồn thảm như con ma chết, ông chỉ muốn cầu nguyện. Ông bảo tôi, Chúa sẽ ban bình an cho anh. Nửa tin nửa ngờ, tôi cầu nguyện như một lời cầu may:
“Lạy Chúa nếu Ngài có thật, xin Ngài cho con bình an… Chúa cứu con, con khổ quá rồi Chúa ôi!”
Mục sư Lạc cầu nguyện tiếp nhận Chúa cho tôi. Một phép lạ xảy ra ngay cho tôi. Sự bình an thật đã đến cho tôi… Tôi sướng quá, tôi la lên có Chúa thật rồi, Đức Chúa Trời có thật, Chúa Jesus có thật. Tôi đã được tái sinh trong đêm đông mưa rơi tầm tả. Mưa ngoài trời nhưng không mưa trong lòng tôi! Ôi Chúa ôi! lòng tôi bình tịnh an bình làm sao! Chỉ có Trời mới làm được! tôi nhảy múa như em bé thết mẹ đi chợ về… Cảm giác bình an còn đến bây giờ.
Chị tôi, gia đình tôi quá kinh ngạc về tôi. Cứ 5 giờ sáng tôi đến Lữ gia cầu nguyện. Ban ngày vừa bán bia hơi, vừa làm chứng về Chúa. Tôi say mê nói về sự bình an, sự tha tội, sự thật về sự hiện hữu, sự cứu rỗi của Chúa.
Tôi thuyết phục đem hàng chục người tin Chúa… Tôi say mê đọc kinh thánh và sách bồi linh. Tủ sách Lữ Gia, tôi nuốt trong vòng 6 tháng. Lòng tôi thay đổi, cuộc đời tôi thay đổi. Một tháng sau bỏ thuốc lá, bỏ rượu, bỏ cờ bạc… Tôi như đang ở thiên đàng. Từ khi tin Chúa cho đến nay, không khi nào tôi bỏ nhóm thờ phượng Chúa Nhật; trừ khi ở tù.
Gia đình, làng xóm, bạn bè quá ngạc nhiên sự thay đổi, lột xác con người tôi. Tôi không muốn gì khác ngoài Jesus, Ngài đã cứu tôi thoát cuộc đời tăm tối – khỏi tội lỗi xấu xa mà trước đây tôi muốn thoát nhưng vô vọng.
Hàng ngày tôi tìm đối thủ phật giáo để tranh luận; tranh luận quên ăn… Người thương thì cũng nhiều; người ghét cũng không ít. Nhất là người chị thân yêu của tôi quá thất vọng vì tôi không còn theo Phật – không ai đội lư hương lúc bà qua đời… Không còn nhậu nhẹt say xỉn, không còn làm mồi ngon cho chúng tôi nhậu nhẹt, trai gái thâu đêm… Tôi còn bị chọc không còn tính đàn ông… Tôi phải nghe chưởi rủa cả dòng họ tôi.
2. Chịu báp-tem
Tôi được học giáo lý báp-tem khoảng 3 tháng tại Hội thánh Lữ gia. Tôi vốn người lắm thắc mắc; Mục Sư Lạc rất khổ với tôi.
Sau khi chịu báp tem, lễ phục sinh năm 1985. Chúa cứ tiếp tục đổi mới; bỏ được thuốc lá, rượu, cờ bạc, em út. Tôi thường đến nhà anh Huệ Nhật ở Quận 5. Anh Nhật làm nghề sửa dép, chị Muộn vợ anh Nhật bán cơm.
Rất bình an – vui mừng – hạnh phúc. Tôi thường làm cho anh Nhật khó chịu vì niềm tin nhiệt tình không kiềm chế của tôi. Tôi khoác lác “Tôi qua Ca-na-an bằng máy bay Bô-ing”
Khoản 1986, tôi gặp anh Nguyễn Bá Tài nguyên là nhân sự Trần Cao Vân. Anh Tài thường đi với Đoàn Như Sỹ, Hồ Ngọc Trực. Họ rủ tôi đi cầu nguyện, cầu nguyện rất nhiều; tôi được học tập tinh thần cầu nguyện của anh Tài. Anh Tài chủ trương không làm việc, Chúa nuôi… Sau đó 4 anh em cùng nhau ra thành lập Hội thánh “Vinh Diệu”.
Chưa tới một năm, Vinh diệu thành vinh váo. Anh Tài nói tiên tri cảm hứng, lại có tư tưởng cao quá lẽ, tôi đành phải chia tay bất đắc dĩ. Tôi trở lại CM&A làm tín đồ quốc tế. Nhóm tứ nhân của Hội thánh Vinh diệu cũng phải ra đi. Bây giờ anh Tài lập Hội thánh Ni-si.
Tôi được tham gia nhiều nhóm; nhưng có điều không có chỗ nào giống thời Công Vụ Sứ Đồ (CVSĐ). Tôi cầu nguyện hỏi ý Chúa, tại sao người ta dám chối bỏ đường lối Chúa, lại thành lập hội giống tổ chức trần gian.
Tôi hỏi nhiều Mục sư, nhiều tôi tớ Chúa mọi hệ phái; tất cả các câu trả lời không thỏa lòng được tôi. Tiếp tục nghiên cứu lịch sử Hội thánh; nhiều tôi tớ Chúa cũng nói các hệ phái cải chánh còn nhiều điều thiếu hụt, cần phải khôi phục, phục hưng.
3. Biến cố gây sốc cho tôi và cho nhà cầm quyền.
Sau khi đọc lịch sử các Đế quốc và tuyển dân D0 Thái. Tôi rút ra bài học và viết lên trong nhất ký: “Chủ nghĩa Cộng sản phải sụp đổ.” Thời gian này Chủ nghĩa Cộng sản đang cực thịnh (1986). Hơn 100 nước theo hoặc cảm tình. Ông Lê Duẫn gọi là 3 dòng thác cách mạng.
Tôi đi hết chổ này đến nơi khác, nỗi đau trong lòng về tình trạng thuộc linh cúa các hệ phái. Tôi bắt đầu suy tư: “Nếu phấn đấu làm giàu thì cũng không thể bằng người khác; phấn đấu học để thành ông này ông nọ; mình cũng không thể bằng người ta… Chỉ có con đường phấn đấu để trở thành người thuộc linh là tốt nhất; khả thi nhất.”
Tôi cũng thấy lịch sử Việt nam, tinh thần yêu nước, giữ nước đâu kém hơn Do Thái. Thông minh khôn ngoan, mưu lược cũng vượt trội: 1000 năm Tàu đô hộ, không khuất phục được ý chí độc lập; 100 năm Đế quốc Pháp cũng phải mang cờ trắng ra đi trong vòng trất tự… Tại sao Việt nam không có một nhà văn, nhà thơ, một danh nhân văn hóa xứng đáng với tầm cỡ của một dân tộc nhỏ bé, nhưng quá cương cường bất khuất…
Tại sao các nước có những nhà Thần học tầm cỡ thế giới; Việt nam thì cứ bắt chước, làm theo, xin theo; tôi cảm thấy mắc cỡ.
Bao nhiêu câu hỏi khiến tôi không thể ngồi yên, và không muốn trách ai! Chỉ có suy gẫm về chính mình nhiều hơn. Tôi học câu nói của Thủ tướng Anh trong thời đệ nhị thế chiến: “Các bạn phải làm gì cho tổ quốc, đừng bảo tổ quốc phải gì cho các bạn”. Tôi nói với Chúa: “Con phải làm gì cho Chúa; Chúa đã làm hết cho con rồi”.
Tối dốc đổ học, nghiên cứu Kinh Thánh. Học rồi cầu nguyện ngày đêm; đọc bất cứ sách gì liên hệ đến Chúa và Hội thánh Chúa… Câu kinh thánh giúp tôi vượt qua gian khó, cũng là kim chỉ nam cho đời tôi “Ai tin Ta thì làm việc Ta làm và còn làm lớn hơn – Sự kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời là khởi đầu sự khôn ngoan.”
Hai năm sau, tôi mạnh dạng xin Chúa một điều: “Xin Chúa cho con làm điều gì mà người khác chưa làm, Chúa ôi! Con không muốn làm con voi ăn mía nhả bả; con muốn làm con ong ăn hoa nhả mật. Con muốn Cha sáng danh qua con“.
Quả thật trong đời tôi, điều tôi ghết nhất là ăn bám và làm nô lệ. Dù là của tiền của cha mẹ. Tôi quyết tự lập, tự nghiên cứu Lời Chúa – Học với Thánh Linh.
Mấy tháng sau Chúa trả lời cho tôi: “Điều con xin, Ta cho; nhưng cái chén ta uống, con uống được không?” Tôi Amen không một chút do dự, thậm chí còn vui mừng vì được uống chén Chúa uống.
Chúa cho tôi người vợ, ngày lễ hôn phối của tôi, như giọt nước tràn ly, góp phần trong việc thêm sóng gió cho ban lãnh đạo CM&A và Hội thánh Tuy Lý Vương Mục sư Đinh Thiên Tứ.
Sau một tuần lễ Mục sư Tứ làm lễ kết hôn cho tôi, Mục sư Tứ phải ra khỏi Tuy Lý Vương trong vòng 24 tiếng theo án lịnh kiểu Công giáo cổ đại của CM&A hợp tác với nhà cầm quyền Cộng sản.
Đầu năm 1989. Hơn 500 tín hữu Tuy Lý Vương làm sóng gió với Tổng Liên Hội CM&A, làm đơn kiện Tổng Liên, muốn độc lập nhà thờ Tuy Lý Vương. Cuối cùng phải chấp nhận làm tám khoẻ “chúng tôi xin ly khai khỏi CM&A”.
Đây cũng là mốc lịch sử của phong trào tư gia có tiếng vang lớn, ảnh hưởng không nhỏ cho Tổng Liên hội CM&A và các phong trào tư gia về sau. Mục sư Tứ như một Martin- Luther Việt nam.
Đầu năm 1990, Tổng thống Bill Clinton bỏ cấm vận; các giáo sỹ chuẩn bị đổ quân vào Việt nam. Các đại lãnh tụ Việt nam bị trận mưa bom “Dolla”.
Dưới ngòi bút sinh viên văn khoa thời nào của Ms Thắng đọc qua đọc lại thấy hấp dẫn không thua gì truyện trinh thám hay đọc lịch sử vậy. Mong thêm nhiều chuyện hay thâm cung bí sử của các quan…trong Hội thánh… Chúa an ủi và ở cùng ông.
Hãy rút lại bài này vì đừng đoán xét ai
Tôi nói lên sự thật, đó không phải đoán xét
Ông Nguyễn Bá tài, Đoàn Như Sĩ, Nguyễn Huệ Nhật bây giờ ra sao? Bà Muộn vợ ông Nhật mới chết được nhà thờ Phạm Thế hiển làm lễ báo tang và đọc tiểu sử sao không giống như ông Nhật nói?
tình yêu thương không vui với sự không công bình – phải nói lẽ chân thật. Tôi không thêm bớt- tôi nói sự thật
Đừng phán xét ai để không bị xét đoán
Hi Nguyên duy Thắng
Đây là Liêm , dạy học chung với ông trong những năm 80
ở An Nhơn Tây
Liên lạc với tôi
Liemluong14@mail.com
Thưa em Duy Thắng quê nhà.
Bao năm xa cách tưởng là khó quên.
Nhờ internet gần bên.
Mình trao nhau chút “tình duyên nợ đời”.
Tựu chung cũng chỉ Ơn Trời.
Ngài cho ta sống làm người với nhau.
Nếu không có Đấng Ban Đầu.
Dựng nên vũ trụ nhiệm mầu xưa nay.
Thì ai hiểu thấu chuyện nầy.
Lăng nhăng chuyện nọ chốn nầy chốn kia?
Người uống rượu, kẻ uống bia.
Người theo Phật Tổ, kẻ về quỷ ma.
Anh em mình tự một Cha.
Là Đấng Tạo Hóa tạo ra vũ hoàn.
Nắn nên thân thể vẹn toàn.
Dệt nên linh tánh ân ban làm người.
Được Ngài thương xót hà hơi.
Thiêng liêng ân sũng tiếp đời mẹ cha.
Lớn lên theo đạo Ông Bà.
Quy y Phật Giáo như là phật con.
Thế nhưng hồn vẫn mỏi mòn.
Điều hay điều đúng vuông tròn méo mo.
Tuổi thơ khờ dại khôn dò.
Lớn lên bỡ ngỡ những trò giáo gian.
Phước thay ân điển không hàn.
Lương tâm thiên tạo ân ban tự Trời.
Phước Âm vốn tự Ngôi Lời.
Đem lòng tin kính nên đời ta vui.
Dù cho cuộc thế ngậm ngùi.
Nay làm con thánh ngọt bùi xẻ chia.
Đức tin mầu nhiệm trăm bề.
Và rất thực tế trở về yêu thương.
Cuộc đời vốn dĩ vô thường.
Vì chưng tội lỗi ngọn nguồn vô minh.
Nhưng người tiếp nhận đức tin.
Trong Danh Cứu Thế tái sanh con Trời.
Nguyễn Duy Thắng vẫn mĩm cười.
Vui mừng cảm tạ Ngôi Lời Jesus.
Huệ Nhật xưa có đi tu.
Nhưng mà tội lỗi mịt mù sương mây.
Bây giờ ngay phút giây nầy.
Chúa ban tha thứ đổi thay tấm lòng.
Chúng ta chắc chắn nằm lòng.
Ăn năn tội lỗi, ân hồng thứ tha.
Một mai về cõi thiên hà.
Vĩnh hằng phước hạnh bên Cha Thiên Đàng.
Bây giờ ca hát vang vang.
Dẫu cho cuộc thế trái ngang thường tình.
Chúng ta vui giảng Tin Lành.
Cứu người sa ngã bên ghềnh Sa-tăng.
Đọc xong Duy Thắng thấy… vui.
Mà sao vẫn cứ ngậm ngùi băn khoăn.
Xa quê nhớ bạn cằng nhằng.
Ở bên Phú Nhuận hai thằng cãi nhau.
Cờ xanh, vàng, đỏ ba màu.
Tháng Tư, Ba Chục quá ngầu Bảy Lăm.
Mới đây hơn bốn chục năm.
Ngắn như thoáng chốc xa xăm mít mù.
Trở về trong Chúa Jesus.
Thấy ra mình đã bị tù quá lâu.
Nước mắt không để giải sầu.
Vui mừng chảy suốt từ đầu đến chân.
Trước hết cám on Người anh em yêu dấu đã đoái thương đến hiền đệ mới ngày nào giờ đã 40 năm…. 40 năm biết bao thay đổi tưởng như giấc mơ “Kinh Kha sang Tần – Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần” . Đúng quả đất tròn, Đấng Toàn năng tuyệt vời khôn xiết.
Tháng trước tôi gặp lại người chị em yêu dấu… và câu con trai của anh ” không còn nhớ được” tại Vũng Tàu.
Rất vui những vầng thơ ngày nào vẫn còn lai láng như nước sông Cữu Long chãy hoài ra đại dương.
Rất cám ơn những vầng thơ . Nhớ Bùi Giáng.
Em nằm dưới lá trong mơ
Nữa đêm nằm mộng thấy ngày hôm qua
Môi nào ở cuối sân Ga
Phố nào phố quận xưa đà tiễn nhau”
Rất mong có ngày gặp anh ơ Hoa Kỳ.
Nhà em đã về với Chúa ngày 2/5 216.