Lời cầu xin đắt giá
Vào tù lần thứ nhất
Tôi được nhà cầm quyền chiếu cố. Tôi ra nhóm tư gia từ năm 1987, công an đã mời tôi không biết bao nhiêu lần, và lập biên bản truyền đạo tin lành trái phép nhiều nơi.
Thời điểm này, nhà cầm quyền rất sợ các nhóm nhánh tôn giáo, đặc biệt là Tin Lành được tuyên truyền là đạo Mỹ. Họ quyết tâm tim cho ra tổ chức nào đứng bên sau điều khiển.
Cuối năm 1989, tôi ra khỏi nhóm anh Tự, đồng công với anh Tuấn quận 8, lập nhóm riêng. Tôi lên truyền giáo Huyện Đạ Hoai, tỉnh Lâm Đồng; sau 3 lần truyền giáo, số người tin Chúa cầu nguyện và Báp-tem được 13 người.
Đầu xuân 1990, trong lúc hát thánh ca vào một buổi tối, bên ngoài trời tối đen. Một bóng đen xuất hiện với AK cầm tay. Tôi được làm biên bản “Truyền đạo tin lành trái phép”, về đồn “Tạm giữ 2 tháng 4 ngày”.
Khoảng 10 đêm, họ dẫn tôi xuống nhà giam. Tôi tưởng như địa ngục. Hơn 10 phạm nhân đã ngủ yên trong phòng. Tôi chỉ quỳ gối cầu nguyên; một người anh em nói nhỏ, con cũng là con Chúa thầy ơi !
Năm 1990, đất nước nghèo lắm. Khẩu phần ăn của phạm nhân chỉ có 3 chén cơm với mấy hạt muối hột, chén canh đại dương.
10 ngày sau, xác thịt đòi hỏi: Thèm thịt, thèm cá… thèm tự do. Mình đang làm tu sỹ “Thích Đủ Thứ”.
Thời gian, mọi sự cũng qua thôi. Lao động khổ sai, nhịn nhục rồi cũng quen. Hoạn nạn giúp mình thêm nhịn nhục anh em nhiều hơn.
Lần đầu tiên vào tù; mới thấy được ông bà đã nói: “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”. Đau đớn nhất là khi vào tù, bạn đồng công bỏ chạy, còn trách ngược, đủ mọi lời phe phán chỉ trích… Tôi nhớ lại điều đã cầu xin “theo gót chân Ngài… phải chịu uống chén khổ nạn, phải như người lính giỏi”.
Sau khi ra khỏi tù, tôi cứ tiếp tục truyền giáo tự nguyện; thường giảng dạy với nhóm về nguồn ở Hố Nai và Trị An. Nhất là sau khi Liên Xô sụp đổ, chúng tôi được chiếu cố cẩn thận. Công an Thành phố – quận – phường xã luân chiến. Dùng đủ mọi chiêu thức của triết học Mác, để khống chế phong trào tư gia. Họ đưa ra tổ dân phố tố khổ, hù dọa. Cám ơn Chúa, chúng tôi biến những lần ra tố khổ thành buổi làm chứng Chúa Jesus đã biến đổi con người tội lỗi của tôi: “Trước đây tôi say xỉn, cờ bạc, trai gái, sao chính quyền không kiểm điểm… Giờ tôi từ bỏ mọi sự đó, quý vị lại bắt bớ tôi… “
Vào tù lần 2
Tôi được Sê-sa đánh giá là nhân vật nguy hiểm, nghi tôi phụ trách Tây nguyên tin lành Ful-rô, sau này Tin lành Đê-ga. Lý do họ nghi tôi làm chính trị là: Một hôm chúng tôi thờ phượng 6 người tại nhà tôi. Công an vào lập biên bản rồi khám xét nhà; tịch thu nhiều sách báo tài liệu. Quyển nhật ký của tôi viết năm năm 1986, “Các đế quốc chống Chúa phải sụp đổ”, “Chủ nghĩa Cộng sản phải sụp đổ.”
Họ yên lặng theo dõi tôi quá kỹ. Họ nghĩ đã tìm được tổ chức chống Cộng tầm cỡ. Đến khi Đông Âu sụp đổ, đầu năm 1991 Liên Xô lại sụp đổ…. Đảng Cộng sản Việt Nam như ngàn cân treo sợi tóc. Thế triệt buộc phải cô lập các ông tin lành của Mỹ vào tù cho chắc ăn; theo triết lý Tào Tháo “Thà tôi phụ người, hơn người phụ tôi”.
Trong bối cảnh, Việt nam bị bao vây tứ phía “thù trong giặc ngoài”, nhiều Đảng viên Cộng sản kỳ cựu chống đối đảng, xin ra khỏi dảng; như Đại tá Bùi Tín xin tị nạn ở Pháp. Nhiều phong trào chống Cộng nổi lên. Kinh tế thì bế tắc, kinh tế mới, rồi đổi tiền, đánh tư sản, nhân tình thì chán chường Chủ nghĩa xã hội không tưởng nghèo đói, phi nhân bản… Có thể nói lòng người từ đảng viên Cộng sản cho đến thứ dân tan như nước. Đất nước như một ngục tù, chỉ muốn xuống nước, ra đi mơ về bên kia bán cầu, ước mơ một ít tự do thoải mái…
Cám ơn Chúa, ai đi được thì vui, ai không thoát khỏi thì nhận tôi danh bán nước, ngồi tù. Trong thời điểm không còn gì để bám. Người ta tìm kiếm Chúa, Chúa đoài hoài dân Việt. Nhiều tôi tớ Chúa hiệp nhau cầu nguyện, kiêng ăn cầu nguyện. Chúa đã phục hưng các nhóm tư gia. Tin Lành bùng nổ, số người tin gia tăng đột biến… Vốn đã sợ Tin Lành của Mỹ, giờ Tin lành của Chúa Jesus còn gây bất an cho chế độ gấp trăm lần. Một số giáo sỹ lại nổ: Đông Âu sụp đổ là nhờ đoàn thanh niên Tin Lành xuống đường… Ba-lan nhờ Công giáo. Chính quyền buộc phải ra tay trấn áp. Sợ cách mạng Đông Âu – Liên Xô nhập khẩu qua Việt nam…
Khoảng tháng 3 năm 1991 khi Liên Xô vừa tan rã. Mục sư Tứ (Đinh Thiên Tứ), mục sư Ái (Trần Đình Ái) vào 3C (nhà tù 3c Tôn đức Thắng) với tội danh “Lợi dụng tôn giáo tuyên truyền chống nhà nước XHCN”.
Tháng 10 Mục sư Trần Mai, vào buổi sáng, tôi vào buổi tối.
Khoảng 5 giờ chiều, sau chuyến đi cầu nguyện với anh em Công giáo về nguồn. Tôi đang ở ngoài quán nước chợ Tân Bình (chúng tôi có sạp bán áo quần trong chợ). Bỗng dưng công an phường 8 gọi tôi về phường bắt tôi làm tường trình: Hôm nay đi đâu? Làm gì?. Tâm linh tôi thấy có điều gì bất ổn, tôi không nghĩ lại bị bắt tập trung 3 năm.
Một giờ sau, một chiếc xe hơi đời mới màu vàng của sở công an thành phố xuất hiện; với mặt đằng đằng sát khí của ông công an thường hỏi cung tôi. Họ đưa tôi về nhà, khám xét rồi đọc lịnh “Tập trung cải tạo 3 năm – Truyền đạo tin lành trái phép”.
Trong túi tôi và vợ tôi chỉ còn mấy chục ngàn, phải mượn hàng xóm mấy trăm bỏ túi. Tôi lên xe hơi đời mới bên người bạn dân ăn nói lịch sự.
Tôi vào 3C, trại tạm giam của an ninh Thành phố khi thành phố vừa lên đèn. Ngày hôm sau, nghe có Mục sư Trần Mai vào buổi sáng. Tôi biết thầy Mai, thầy Mai không biết tôi; vì tôi chỉ là một tín đồ vô danh. Cách nhau 5 phòng nhưng không thể nói được gì cũng không thể gặp mặt nhau.
Kỷ niệm không thể nào quên ở 3C .
Sau khi phạm nhân cùng phòng chuyển đi nơi khác. Một mình tôi với 4 bức tường tối mịt. Đêm về, tiếng bán hàng rong vang vọng: “Mì nóng giòn đây, hột vịt lộn đây…” Thèm tự do, thèm bánh mì, thèm hột vịt lộn… Buồn nhớ vợ, nhớ anh em như muốn phá vỡ nhà tù…
Vợ tôi ở ngoài thì hết người này cố vấn, hết người khác quân sư quạt mo. Làm đủ mọi thứ đơn, xin gặp đủ mọi cơ quan… Nhưng ý Chúa phải được nên.
Trước đây tôi phải lo kinh tế cho gia đình. Khi tôi vào tù, vợ tôi phải làm thuê, làm mướn đủ tiền nuôi bản thân, còn thăm nuôi tôi hàng tháng. Tiêu chuẩn thăm nuôi tôi là mắm ruốt kho tiêu với thịt và mì ăn liền cân kg. Ăn riết mắt bị dị ứng, ngứa mắt muốn khùng luôn.
Một lần vợ tôi gợi ý chị vợ tôi, mượn một chỉ để lấy vốn xoay xở, mua áo quần bán. Chị vợ tôi nói một câu để đời: “Tụi bây mượn lấy gì mà trả”. Vợ tôi khóc quá chừng, chị em ruột cùng niềm tin, chồng đi tù vì danh Chúa… mà đối xử như vậy. Trong lúc những mục sư khác bà đối xử rất đẹp. Còn đệ tử thì “Năm thì mười họa chăn hay chớ; một tháng đôi lần khi có khi không”. Đủ thứ Chúa cho chúng tôi học tập chịu đựng, tưởng như bỏ cuộc.
Riêng người chị ruột thân yêu tôi, ở trong nhà, không bao giờ đoái đến, dù là một bịch đường nghĩa tình; bà còn chửi rủa tôi thành lay, ai bắt đi truyền đạo chết ráng chịu. Vợ tôi thì bà cứ chửi rủa thiếu mấy chỉ vàng chưa trả được… Kẻ thù từ trong nhà nội – ngoại… Anh em hội thánh gần xa: “Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương”. Đúng là kính thưa các kiểu, kiểu nào cũng có em; em xin.
Trong tù ngồi đếm từng ngày như người tình đếm từng chiếc lá thu rơi; như Giô-na chờ ngày NI-ni-ve sụp đổ. Hàng ngày cầu nguyện cho mau sụp. Hầu hết anh em bị tù vì chính trị, đều tin như vậy.
Nói cho công bằng, cán bộ quản giáo và chấp pháp không hành hạ hay đánh đập chúng tôi; họ thông cảm. Việc họ làm phải làm; thậm chí kính nể chúng tôi, vì danh Chúa vào tù một cách vui mừng, không oán thù ganh ghét Cộng sản. Thậm chí còn cầu nguyện cho họ. Chính điều này làm phật lòng anh em đấu tranh vì dân chủ; họ kiếm chuyện, gay gổ hoài. Tôi khổ tâm là tôi ngày phải nghe chửi rủa…
Ở 3C được 21 ngày; chúng tôi được dời qua 4 Phan đăng Lưu tiếp tục nghỉ dưỡng, thuộc bộ công an điều tra bổ sung.
Mặt đối mặt: chơi cờ tướng
Tôi ở dãy B, thầy Mai ở dãy C. Phòng kế bên là Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, cựu phó viện trưởng viện đại học Vạn hạnh “diễn đàn tự do dân chủ”. Phòng tôi 4 người chống Cộng không đội trời chung.
Suốt ngày nghe chửi rủa ông Hồ Chí Minh, và Cộng sản. Lúc đầu rất khó chịu; nhưng rồi cũng quen. Tôi không đồng công chống Cộng, họ đâm ghét tôi, làm khổ tôi đủ mọi cách. Chúa cho tôi học nhịn nhục đến điều với bạn đồng tù.
Có một điều hơi khó nghe: chúng tôi rất thích gặp chấp pháp để đối thoại những việc mình làm. Tôi và Thầy Mai được đánh giá là cứng đầu cứng cổ, không biết sợ tù và sợ chết. Chúng tôi thường chấp pháp họ nhiều hơn là họ chấp pháp chúng tôi; họ rất nhức đầu khi hỏi cung chúng tôi.
Vào Phan Đăng Lưu được 2 tháng. Thử thách đến với tôi: 2 tháng không gặp mặt vợ; chỉ được nhận đồ thăm nuôi.
Hai tháng dài đằng đẳng, không biết chuyện gì đây… Đủ mọi kiểu đoán mò, đoán hươu vượn. Lòng tôi thì tan nát, chỉ còn cầu nguyện xin bình an.
Cuối tháng thứ hai, ngày thăm nuôi, tôi được mời lên làm việc. Họ vốn biết tôi am hiểu luật, dân luật, công pháp quốc tế…
Họ điều một ông đại úy chấp pháp có trình độ để chơi cờ tướng với tôi. Ông này là bạn của bạn học ở Đại học văn khoa Sài Gòn sau 1975. Hai năm học bổ túc ngữ văn tại khoa học nhân văn, nhiều sinh viên biết tôi vì tính ngang tàn – quá thẳng của tôi; đáng lẽ tôi nằm trong danh sách bị đuổi, nếu không có Phạm Đình Nguyên bí thư đoàn trường can thiệp.
Việc đầu tiên ông chào hỏi tôi rất lịch sự, rồi phủ đầu tôi liền: Ông ra lịnh không cho tôi gặp mặt vợ 2 tháng…
Sau đó lịch sự mời thuốc lá, ca tụng tôi, cho tôi ăn bánh vẽ, đưa đi tàu bay giấy…, khuyên tôi đừng truyền đạo nữa, về lo cho vợ con.
Tôi trả lời:
“Cám ơn cán bộ, tôi không tốt như cán bộ nói; tại tôi xấu, tội lỗi lắm; vì quá tội lỗi nên tôi mới tin Chúa. Còn các anh tốt rồi, đâu cần tin.
Tôi vào tù là đã chuẩn bị trước; thậm chí rất vui, vui nhất là được gặp các anh, để các anh hiểu đúng Tin Lành không phải là đạo Mỹ. Tin lành là Chúa Jesus. Vì nước Mỹ mới lập quốc hơn 200 năm, còn tin lành đã có gần 2000 năm. Các anh nên đính chính tư duy sai lầm: Mỹ theo tin lành, chứ không phải Tin lành của Mỹ.
Nếu Chúa chúng tôi không cho phép các anh, các anh sẽ không tồn tại, không đụng được tôi đâu. Chúng tôi thương các anh, vợ con các anh, chúng tôi yêu quê hương mới dám từ bỏ mọi sự theo Chúa…”
Ông cắt lời tôi, quát tôi: “Vào đây rồi mà vẫn còn truyền giáo…” Tôi chặn lời, tôi đâu truyền giáo, tôi chỉ trả lời điều cán bộ hỏi, và chỉ làm chứng về sự thật mà… Chúng tôi đâu bắt các anh tin đâu!
Mắt ông đăm đăm nhìn trực diện mắt tôi. Mắt tôi cũng đứng tròng nghiêm khắc nhìn lại. Ông nghiêm mặt nói: “Mục sư có biết đảng và nhà nước ta đang xây dựng một XHCN pháp quyền không?”
Như đụng vào chổ ngứa của tôi, tôi quát không một chút sợ hãi:
“Xin lỗi cán bộ, câu nói của cán bộ nên để nói với anh nông dân vùng nông thôn Mỏ Cày – Cần Giờ, hay một công dân quét rác. Cán bộ biết, tôi là nhà báo, nhà nghiên cứu mà…
Các anh đang xây dựng một XHCN rừng quyền, AK quyền. Tôi hỏi anh pháp quyền gì mà bắt tôi không cho tôi một mảnh giấy? (lịnh cải tạo 3 năm chỉ nghe đọc, không cho án lịnh); các anh còn thua thời Tự Đức; tiêu diệt Gia-tô giáo đều có “Ấn chỉ lịnh truyền”… Các ông thì ấm ớ hội tề, ném đá giấu tay; các anh nên ngay thẳng; can đảm tuyên bố Ta là Đảng cầm quyền, có quyền bắt ai tùy ý, muốn tha ai tùy lòng! Đảng còn hơn vua…
Chúng tôi sẵn sàng đi tù, hoặc ra pháp trường, bảo đảm không van xin, không làm đơn giảm án. Hãy đưa chúng tôi ra tòa vì tôi truyền đạo tin lành trái phép (có phép đâu mà trái), tại sao lại tập trung cải tạo?”
Ông hơi đuối lý, xuống giọng; cuối cùng vấn đề chính lộ diện, ông hỏi: “Tại sao mục sư chống Cộng, nói Chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, điều này từ đâu đến…?”
Tôi trả lời: “Nếu ai đó nói không chống Cộng là nói dối; các anh là đảng viên còn chống… Các ông là vô thần, còn chúng tôi là hữu thần, sao không chống được? Vấn đề chúng tôi chống các anh bằng tư tưởng, bằng tình yêu của Chúa; còn các anh chống chúng tôi bằng cách bỏ tù chúng tôi.”
Còn ấn đề Chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, ai đứng sau lưng tôi và làm cho sụp. Tôi trả lời:
“Tôi nói điều này đã 4 năm trước, bây giờ Đông Âu đã thật sự sụp… Liên Xô thành trì cũng đổ rồi. Việc đã ứng nghiệm, tôi là một tiên tri, sao không tôn trọng tôi, mời tôi làm cố vấn, lại bắt tôi đi tù. Thật chỉ có Cộng sản mới hành xử như vậy!
Việc các anh bắt tôi, tôi không có điều gì tiếc nuối hay thù nghịch các anh. Chúa tôi, các tổ phụ tôi đã đi trước. Hôm nay, nước các anh thắng chúng tôi; ngày sau khi Chúa chúng tôi tái lâm, chúng tôi sẽ liệng tất cả những ai vô tín, bắt bớ Hội thánh Chúa và hỏa ngục… Đó cũng là cuộc chơi của sự công bình, OK!
Còn ai bên sau tôi, hơn 3 năm các anh theo dõi, tôi chả biết, chẳng quen một ông Tây, ông Mỹ ông nước ngoài nào hết; sao các anh sợ tôi đến nỗi bắt tôi vào tù… Nền an ninh các anh vững chắc quá ư…
Trong lúc tôi không có một tất sắt, không có một Hội thánh địa phương nào hết… So với biết bao lãnh đạo tư gia đồ sộ khác, lại không bắt…”
Tôi càng nói ông đại úy càng bối rối. Tôi vẫn quý ông, ông không giận tôi, lại yêu tôi, cảm thông tôi nhiều.
Dự kiến làm việc cả ngày, nhưng ván bài đã lật ngửa, chẳng còn gì nói nữa. “Tôi chẳng CIA, chẳng diễn tiến hòa bình, chiến tranh gì cả… Bé cái nhầm rồi.”
Cám ơn Chúa, cho tôi nếm trải đủ mùi cô đơn, buồn tủi; nhưng có chút can đảm của lòng chân thành, có sao nói vậy; ông Đại úy chấp pháp không làm khó dễ tôi nữa, cho đến khi ra khỏi tù.
Điều thú vì nhất ở 7 tháng Phan Đăng Lưu; Chúa rất gần, rất thú vị được gặp 106 anh hùng hảo hán. Nhiều chuyện thâm cung bí sử từ thới Ngô Đình Diệm cho đến các đại lãnh tụ được một nhân chứng “ông già câu cá” trình bày vanh vách…
Một câu chuyện khó quên là thầy bùa cầu cơ.
Có một người vào tù vì bán đồ quốc cấm, nói tiếng Anh lưu loát, phòng giam nhộn nhịp, súm nhau học tiếng anh. Anh chàng là một thầy chuyên cầu cơ, lên đồng. Anh bảo vợ mang miếng ván hòm, để tối cầu cơ cho vui.
Trước đó tôi đã nói, có tôi ở đây thì cơ không lên được. Họ tưởng tôi đùa, cứ thử các thần… Sau 12 giờ đêm, anh chàng đọc thần chú; tôi thì quay mặt cầu nguyện, chống lại ma quỷ.
Hơn một giờ cầu cơ, ngón tay người cầm cơ cứ lắc lắc, nhưng không di chuyển được cơ. Gần 2 tiếng, cơ vẫn không hoạt động được. Toàn phòng hoang mang, tôi thì chọc quê, như Ê-ly thách thức Ba-anh.
Tối hôm sau, chính anh thầy bùa cầm cơ; vẫn xảy ra như đêm trước. Riêng người cầm cơ hôm trước, quỷ nó nhập, cứ 3-4 giờ sáng nó la, quậy không ai ngủ ngược. Cả phòng hoảng sợ, bắt qua ngủ với tôi… nhưng nó vẫn quậy… Giờ cả phòng thấy được uy quyền trong Cơ Đốc Nhân thật.
Tuần sau, tôi được lịnh chuyển phòng. Khi cán bộ quản giáo bảo thu dọn áo quần, tôi cứ tưởng được trả tự do.
Đến phòng chờ, đã thấy thầy Mai đợi sẵn. Trên cùng chuyến xe Jeep; hai tay chúng tôi với thấy Mai chung một còng số 8, chiếc xe jeep lượn quanh một vòng từ chợ bà Chiểu qua Võ Thị Sáu rồi đi thặng vào khám Chí Hòa.
Lúc đầu còn e ngại vì 2 an ninh kèm sát hai bên. Chúng tôi chỉ nhìn nhau không nói được gì, nhìn quanh mọi người đang nô đùa, rộn rã của nhịp sống thành phố; còn chúng tôi 2 tay bị còng trên chiếc xe có người hộ tống; con đường phải đến cho là trại giam Chí hòa; tương lai phía trước còn thăm thẳm.
Một kỷ niệm khó quên khác, khi ở 3C và Phan đăng Lưu tôi hút thuốc lại, hút ghiền luôn, ngón tay phải vàng khè vì thuốc lá. Mỗi lần ra thăm nuôi tôi phải nắm tay lại bỏ vào túi; sợ vợ và anh em buồn. Thầy Mai đã nghe điều này, cầu nguyện cho tôi nhiều… Cám ơn Chúa, cám ơn thầy Mai.
Đến phòng chờ Chí hòa, Thầy Mai thấy tôi còn bao thuốc lá, thầy quở trách tôi… Tôi xấu hổ, tức tốc xé gói thuốc và tuyên bố đoạn tuyệt thuốc lá. Cám ơn Chúa, cám ơn thầy Mai; kể từ đó không bao giờ dám thử nữa.
Vào Chí Hòa được ở chung với nhau một phòng. Thấy anh em đông đảo, sách báo đầy phòng, lòng thấy vui, dù quá chật. Phòng chiều dài khoản 6 mét, 5 mét; tù nhân khoản 40 người. Mỗi người được một mét vuông. Đông người chật nhưng rất vui. Nhiều anh hùng hảo hán quy tụ về đây; tôi học được nhiều điều: thâm cung bí sử, chuyện đông tây kim cổ, đủ mọi thứ ngoài đời tha hồ nổ, không thể hiểu nổi. Tù là nơi hội tụ anh hùng Lương Sơn Bạc không sai.
Tôi chứng kiến một người có trí nhớ như máy thu âm. Anh đó tên là Lúa, quê ở Hóc môn. Tối về một nhóm quây quần bên ấm trà bắc, nghe anh đọc truyện kiếm hiệp. Anh nhớ từng câu, từng sự kiện. Nhớ cả chục bộ kiếm hiệp…
Tôi hồi tưởng lại, thời CVSĐ. Các sứ đồ đến dạy, hay một thư tín; có người nhớ thuộc lòng rồi truyền miệng, lưu truyền cho hậu thế.
Nhà tù Chí Hòa là nhà chờ đi lao động, thi hành án. Nên họ cho đọc báo và tự do rao giảng Tin Lành; chỉ cần 2 gói thuốc lá thì Kinh Thánh hay sách bồi linh có thể vào phòng. Năm 1992 kinh tế còn khó khăn, anh em quản giáo quan hệ với tù nhân thoải mái, chỉ cần biết điều vài bao thuốc lá là mọi sự như ý.
Chúng tôi tổ chức làm chứng, dạy đạo cho một số anh em Công Giáo, một số Tin Lành nguội lạnh, nhiều giám đốc công ty bể tín dụng. Không khí rất vui. Tối lại, từng nhóm từng nhóm tha hồ nói chuyện trên trời dưới đất.
Trong giai đoạn này, rất nhiều giám đốc, tổng giám đốc bể hụi, bể tín dụng đua nhau vào tù. Người nào cũng 8 năm, 18 năm. Sau khi tuyên án, nhiều bà vợ vào thăm, mang theo tờ xin ly dị; với lời nói phủ phàn :” Anh ở tù mười mấy năm, em lấy gì nuôi con. Cho em ly dị để có thể bán nhà sinh sống”. Ngậm đắng nuốc cay phải ký cho trọn tình trọn tội”.
Chúng tôi cũng gặp nhiều anh hùng hảo hán với đủ mọi khuynh hướng chính trị tôn giáo khác nhau. Phòng kế có bác sỹ Nguyễn Đăng Quế; trong phòng lại có một Thượng tọa và một linh mục Công giáo. Ông Thượng tọa thì giảng Phật pháp. Chúng tôi thì giảng Phúc âm, nhộn nhịp như hội chợ rất vui…
Sở dĩ cán bộ cho chúng tôi thoải mái, lý do bản thân họ cũng không dám tin chế độ Cộng sản tồn tại lâu dài nữa. Họ cũng chán nản, mất niềm tin- sống thoải mái với anh em nhà tù. Đông Âu súp đổ, Liên Xô tan rã… chỉ còn lại 4 nước theo chế độ XHCN, lại nghèo khổ, lạc hậu.
Niềm hy vọng chúng tôi ngồi đếm từng ngày trôi qua, như Trịnh Công Sơn nhìn những mùa thu qua; như Giô-na ngồi chòi, đếm từng ngày chờ Ni-ni-ve sụp đổ. Đây cũng là động lực giúp chúng tôi thêm niềm tin, vượt qua sóng gió.
Thời gian 7 tháng Chí Hòa, thầy Mai và tôi có nhiều cơ hội trao đổi khải tượng, và hướng tương lai Hội thánh. Lúc đầu Thầy Mai không hiểu tại sao tôi vào tù với tội danh “truyền đạo tin lành trái phép”, trong lúc thầy cùng 2 mục sư: Tứ – Ái (Đinh Thiên Tứ – Trần Đình Ái) là “Lợi dụng tôn giáo chống CNXH”. Đúng ra tôi tội “Chống Chủ nghĩa Cộng sản”. Tôi cũng không cho thầy Mai biết sự tình của tôi.
Hơi buồn cười, giống chuyện trong nhà ngoài phố. Nhưng đây là chiến lược dương đông kích tây, giả mù sa mưa của những chiếc lược gia “giả vờ qua ải” của Cộng sản.
Thầy tha hồ bồi linh cho tôi, tràng giang đại hải, tha hồ múa gậy vườn hoang; nổ cho hết đạn để về Trảng Bom định cư.
Thầy Mai cho tôi khải tượng không đụng hàng về tương lai Hội thánh gồm hai bước:
1. Phải truyền giáo theo cách mới
Thầy nói trong sự tin quyết, xưa nay đi câu cá, hay đi đánh lưới; kết quả quá chậm; cho nên không môn đồ hóa được muôn dân. Bây giờ thế hệ chúng ta, phải thay đổi tư duy, thay chiến lược: phải be biển, ngăn sông tát nước bắt trọn hải sản.
Biển là thế gian, muốn truyền đạo có kết quả nhanh; phải khoanh vùng lùa mọi người vào một nơi; không phải câu, đánh lưới mất thời gian, lại thiếu hiệu quả… Bắt mọi người tin Chúa, Như Hoàng Đế Constantin Cơ Đốc Giáo hóa Đế quốc La Mã.
2. Phải thay đổ chế độ: từ quét rác cho đến thủ tướng là Cơ Đốc Nhân…
Muốn thực hiện được khải tượng đó, phải thay chế độ; Cơ Đốc hóa lãnh đạo chính quyền. Phải xây dựng xã hội Thiên đàng trên đất… Chuyện như thiệt, còn hơn huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương…
Thầy còn gợi ý tôi, tôi sẽ làm chức cao nhất trong chính quyền tương lai…
Tôi nghe, hoảng hồn… Tôi hỏi thầy Mai: “Thầy đã đọc truyện Don-Ki-sốt chưa? Tôi sẽ giúp thầy một cây kiếm, một cối xay; thầy tha hồ chém gió, đánh với cối xay gạo thoải mái; thầy giống Don-ki-sốt quá! Gây dựng một người chưa xong; ổn định một Hội thánh địa phương còn trầm trầy trầm trật, mà đòi Cơ Đốc hóa chính quyền…” Thầy Mai giống như Nữ Oa đội đá vá trời. Tâm hồn hoang tưởng của thầy Mai khó ai sánh kịp.
Thầy Mai nổi nóng với tôi, cho tôi không có đức tin… Tôi nói với thầy, cám ơn lòng tốt của thầy. Tôi không được kêu gọi làm chính trị, và khả năng tôi làm phường trưởng cũng không xong, lấy đâu làm Thủ tướng.
Hơn nữa, Hội thánh là thuộc linh, chỉ lo thuộc linh. Hội thánh là ánh sáng chiếu vào thế gian, không phải là thế gian. Hội thánh là muối của đất, không phải là đất.
Hội thánh chỉ ảnh hưởng trên chế độ, trên chính quyền, trên loài người; Hội thánh không hội nhập, không thỏa hiệp hay đồng hóa với các thể chế chính trị hay bất cứ một đảng phái nào hết. Các sứ đồ và Hội thánh đầu tiên không cần tham gia chính trị; nhưng Hội thánh đã chi phối mọi sinh hoạt của đế quốc La Mã suốt thời gian 300 năm.
Con cái Chúa có thể ra tham gia chính trị, tham gia một đảng nào đó. Còn Mục sư Chúa kêu gọi lo chăn bầy cho Chúa. Mục sư phải đứng ngoài chính trị; trên chính trị, có thể cố vấn cho lãnh đạo chính quyền. Mục sư phải yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho nhà cầm quyền, dù họ bắt bớ, bỏ tù mình…
Hội thánh không hoan hô ai! cũng không đả đảo ai. Hội thánh phải yêu mọi người, phải yêu cả kẻ thù nghịch; làm sao làm chính trị được.
Chính trị thì yêu ghét; bạn thù phân minh. Không thủ đoạn, không dối trá làm sao mà làm chính trị.
Tôi đã khuyên thầy Mai, bỏ ý định; từ giả khải tượng (thấy voi) đó đi. Chúa kêu gọi chúng ta vào công trường thuộc linh. Còn chế độ này đứng hay ngã là của Chúa, Chúa có toàn quyền cho sụp theo thời điểm của ý Ngài. Xin đừng đi trước Chúa, làm Don ki-sốt đánh gió, chém cối xay nữa.
Thầy Mai thì bạo miệng, bạo gan, bạo phổi; thầy giảng không cần tra xem kinh thánh, cứ lấy đức tin theo bụng mình giảng dạy hùng biện thoải mái vô tội vạ. Không rành Kinh Thánh thì nghe thầy giảng sướng lỗ tai, chuyện như trong nhà ngoài phố đỡ buồn ngủ.
Khi còn làm chủ tọa Hội thánh Trương Minh Giảng , thầy đã nổ nhiều điều nghe muốn lùng bùng lổ tai; tạo sóng gió một thời, nhiều người rối loạn cả đức tin. Ví dụ :
“Tin Chúa Jesus chắc được cứu không?” thay vì giảng tin như thế nào mới được cứu.
“Tái sinh thì không còn phạm tội…” Tôi hỏi lại thầy: “Thầy còn phạm tội không?” Thầy không dám khẳng định. Nếu nói còn thì chưa được tái sinh; nếu không thì nghịch Kinh Thánh…
“Không đầy dẫy Thánh Lnh thì vào địa ngục” Tôi hỏi tên cướp trên thập tự có đầy dẫy Thánh Linh không? Thầy đầy dẫy Thánh Linh chưa?
Một hôm giảng về đề tài Chúa tái lâm, thầy Mai nổ: Sợ ngày mai Chúa tái lâm, không giám đi sửa chiếc xe mô-bi-lét …” Mô-bi-lét không sửa, nhưng xe Hon-da đời mới thì thầy chăm sóc rất kỹ…
Một thời thầy làm xáo trộn cuộc sống vì con rồng “Bất cứ vật dụng gì có hình con Rồng thì phải đập bỏ, thiêu hủy”, còn vàng rồng SJC thì thầy bỏ vào tủ sắt…
Thầy Mai sáng tác một lối nhập đề theo lối Tu từ học giật gân. Ví dụ:
“Phải đầy dẫy Đức Thánh Linh, cụ phó Đoàn văn Miên nói vậy… Sai, hoàn toàn sai!…” Mọi người im phăn phắt, lỗ tai nghe bùng bùng… Thầy Mai cũng im lặng vài phút, xong thầy hạ giọng … rồi la to, “Đó là Sa-tan nói”.
Còn nhiều vấn đề giật gân khác, ai ở Hội thánh Trương Minh Giảng đôi phen khủng hoảng niềm tin về thầy Mai.
Một lần khác, thầy tranh luận với tôi vấn đề hai cây giữa vườn. Thầy Mai khăng khăng Chúa cấm hai cây đó. Tranh luận bất phân thắng bại. Thầy Mai nhờ cô Liễu vợ thầy mang được quyển kinh thánh vào, thầy tá hỏa Chúa chỉ cấm trái cây biết điều thiện và điều ác..Thầy mới chịu thua, biết phục thiện.
Một lần khác nữa, tôi chia sẻ, Chúa cho chúng ta địa vị “là Jesus kế thừa”. Thầy nổi nóng với tôi, bảo tôi kiêu ngạo… mỉa mai tôi… Tôi chứng minh đủ điều, “Chúa là anh cả. Chúng ta đồng kế tự Đức Chúa Trời…” Thầy vẫn bảo thủ, cho đến khi giáo sỹ ngoại quốc, giảng y như vậy; thầy mới chịu thua, xin lỗi tôi…
Tôi lần lượt chỉnh thầy từng điểm một. Thầy ngạc nhiên vì sao tôi chỉ là tín đồ, trong mắt thầy tôi là tín đồ, tại sao tôi lý giải cho thầy những vấn đề hóc búa này, lại hiểu được các lẽ đạo mầu nhiệm… Thầy Mai cũng có ưu điểm dễ tiếp thu, cầu thị khá tốt. Thầy không tự ái với lời lẽ như bom nổ bên tai của tôi.
Sau này khi ra khỏi tù, nhiều giáo sỹ giảng dạy các lẽ đạo trên, trùng hợp với những gì tôi đã chia sẻ cho thầy trong thời gian ở Chí hòa.
Thầy Mai ngạc nhiên, không hiểu nổi, tại sao tôi chưa có bầy chiên, chưa có một Hội thánh địa phương, chưa được ấn chứng chức vụ Mục sư; lại đi tù vì “truyền đạo tin lành trái phép” thay vì tôi phải tội danh: “chống Chủ nghĩa xã hội” mới đúng.
Từ đây thầy quý mến tôi, anh em ăn chung, được ăn chung với lãnh tụ là hãnh diện lắm. Đồ thăm nuôi thầy Mai không thiếu vật ngon, của lạ. Còn tôi, phần thăm nuôi thì cứ mắm ruốt kho thịt, mì gói, bột ngũ cốc, vì vợ tôi phải đi làm thuê vừa đủ nuôi sống bản thân, và đủ thăm nuôi.
Còn nhiều chuyện huyền thoại khác ở Chí hòa không thể kể hết được.
Tống Lê Chân nghe thôi đã khủng hoảng
Trước 1975 ai nghe đến Tống Lê Chân thì hiện lên lữ đoàn “Biệt động quân” tóc dài ngang vai. Chỉ ăn ngủ dưới hầm sâu chịu mưa pháo kích ngày đêm. Tống Lê Chân nằm ở ngã 3 biên giới thuộc tỉnh Bình Phước. Tây giáp Tây Ninh, bắc giáp Cam-bo-di-a, đông giáp Bình long.
Trại tù Tống Lê Chân có khẩu hiệu: Mãn tù trước mãn án. Nơi giam giữ đại bàn đầu gấu khét tiếng, chung thân… Họ cho chúng tôi vào đó để qua tội phạm hình sự xử lý chúng tôi; nếu có thể cho chúng tôi về với Chúa trước thời định.
Trên chuyến xe kinh hoàng
Tôi còn nhớ kỹ, sáng thứ sáu ngày thăm nuôi, chúng tôi dọn lòng chờ gặp gia đình. Cán bộ quản giáo báo chuẩn bị hành trang lên đường.
Hai chiếc xe tải 5 tấn chờ sẵn. Một chiếc có hai hàng cây sắt; mỗi cây mang 40 chiếc còng. Tù ngồi theo lớp đối diện mỗi bên 20 người.
Quảng đường dài 120 km, đường thì ổ gà ổ voi. Khuỷu chân tưởng như đã gãy; chỉ biết kêu Chúa cứu. Còn chút ít tiền trong túi, bì tù móc hết.
Đến Tống Lê Chân khoảng 4 giờ chiều. 8 vị Mục sư truyền đạo đã tiếp đón chúng tôi trong ngỡ ngàng…
Tuần lễ sau, mục sư Tứ, mục sư Ái mời thầy Mai nói chuyện, đề nghị thầy Mai tách tôi ra ăn cơm chung với họ trong mâm Ni-cô-la biệt danh “Tù ông nội”, tù có hai người tù lo mọi sự (cả đấm bóp hàng đêm).
Thầy Mai không chịu hội nhập với mâm đại gia lao động nghệ thuật bên 4 suối nước, không có 12 cây chà là.
Cuộc chiến tranh dành ảnh hưởng bắt đầu.
Mục sư Tứ, mục sư Ái và trước chúng tôi hơn nửa năm. Hai vị đã có số má nhất định. Mục sư Ái có đệ tử trung thành người dân tộc K Hor; Mục sư Tứ cũng có Dũng Chàm xì ke. Mục sư Phụng ngũ tuần FG, Mục sư Hà Oanh, Hà Hát CM&A thì trung lập.
Nắm tình hình xong, Thầy Mai lên kế hoạnh chinh phục nhân tâm với kế hoạch: “Tiền hô, hậu ủng”. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn. Với lợi thế tiền bạc vô tư, thầy Mai tặng quà hậu hỷ cho 3 mục sư trung lập.
Hai mục sư dân tộc từ chối làm nhân sự thầy Mai; thầy Phụng thì im lặng là vàng; khiêm nhường để thầy Mai múa gậy vườn hoang.
Thầy Mai bắt đầu lấn sân, giành dân. Dũng Chàm một tín đồ CM&A bị tù vì hút chích; hiện được lao động tự giác.
Dũng Chàm bỏ chủ cũ (mục sư Tứ) chuyển qua chủ mới hào hiệp hơn, tương lai hơn. Từ đây chiến tranh lạnh giữa hai đại gia ầm ĩ; ban giám thị thêm dầu cho hai đại sư quyết đấu. Nhà tù Tống Lê Chân hình thành một “tam sư chiến quốc” giống như Tam Quốc Chí diễn nghĩa:
- Thầy Mai đóng vai Tào Tháo.
- Thầy Tứ đóng vai Lưu Bị.
- Thầy Ái đóng vai Tôn quyền.
Ban quản giáo đóng vai Khổng Minh Gia Cát Lượng kiêm Chu Du liên hoành.
Chúng tôi làm quan sát viên bất đắc dĩ.
Thầy Tứ vốn giỏi chiến quốc: Đông hòa Tôn Quyền, hợp tung bắc nam, lợi thế vào trước, được Sê-sa quan tâm. Thầy Tứ, thầy Ái cũng chỉ liên minh bất đắc dĩ. Mỗi người đã hùng cứ một phương, vương quyền một cõi, hơn nữa thầy Tứ lúc nào cũng muốn làm đại ca.
Thầy Mai làm Trương Nghi với thế:” liên hoàn Tây đông” với Dũng Chàm.
Ba tháng sau, thầy Mai không còn ăn cơm chung với tôi. Thầy Mai xứng đáng đại diện cho xứ quãng dúng nghĩa: “tính toán hơn cả trùm sò keo kiệt”.
Thầy Mai tập trung cho liên minh Đông – Tây mới hình thành, dĩ nhiên chơi gát thầy Tứ, dành Dũng Chàm.
Thật tình mà nói, tôi cũng không thiện cảm với Thầy Tứ, thầy Ái, với lối sống phi Cơ Đốc, nịnh cán bộ, vẫn thích ngồi mát ăn bát vàng. Các anh em khác phải lao động nắng cháy da người; hai vị thì bỏ tiền mua lao động, tối về mướn hai tù phạm mồ côi đấm bóp hai bên xem thù nghịch thập tự giá quá. Hầu hết tù đều ghét hai ông. Thậm chí lúc đầu còn làm tà lọt cho quản giáo: “pha trà, nấu mì gói cho cán bộ quản giáo ” để khỏi lao động. Trà, mì gói mình phải bỏ ra.
Lúc đầu chúng tôi cũng được quản giáo đề nghị làm lao động phục vụ trà nước cán bộ, tôi và thầy Mai đồng suy nghĩ, chúng ta là đầy tớ Đức Chúa Trời, là khâm sai Christ, không chấp nhận làm Ô-sin cho cán bộ để né tránh lao động; sẵn sàng chết trên công trường lao khổ vì Chúa, không thể quỳ gối làm hàng thần lơ láo. Cho nên bị đì tối đa, xem chúng tôi cứng đầu cứng cổ. Tất cả anh em đều phải lao động khổ sai cho đến ngày được trả tự do.
Bốn tháng sau, Thầy Mai bị viêm khớp đầu gối, phải làm Tôn Tẩn với cây gậy đi ra công trường. Hàng ngày tôi phải dẫn Thầy đi rồi về, giống đi ăn xin trông thật vui.
Về sự việc thầy Mai bị biệt giam 2 lịnh (15 ngày)
Trong thời điểm đó, luật nhà tù rất nghiêm khắc. Ai gời thư lậu ra ngoài đều phải bị biệt giam; đã có mấy người vi phạm .
Thầy Mai bản tính thích làm Phao-lô, viết thư gởi sứ điệp từ tù cho Hội thánh. Tôi đã can thầy đừng gởi thư ra trong giai đoạn này. Thầy Mai tin Chúa che chở bảo vệ; thầy gởi một lá thư cho một tù nhân mãn án.
Khi bị cán bộ xét hỏi, anh ta khai có thư thầy Mai. Thế là thầy bị kỷ luật, biệt giam 2 tháng. Chế độc biệt giam chỉ cần nghe qua đã thấy khủng hoảng; đại bàng đại bác gì cũng phải khiếp vía.
Chỉ mặt một quần đùi, trong một căn phòng khoản 9m2, lợp tôn; chân bị còng suốt ngày đêm. Tiêu chuẩn một bữa ăn một tô nhỏ cơm trắng, với một ít muối trắng. Ngày nắng nóng, đêm về lạnh thấu xương, phải chịu đựng 15 ngày như thế.
Trong lúc thầy Mai bị biệt giam; ở ngoài Khổng Minh, Chu Du đã chuẩn bị một màn kịch, tuyệt chiêu để phe Lưu Bị với Tào Tháo thành song hổ quyết đấu.
Thầy Mai vốn đa nghi. Quản giáo là thầy của đòn xóc nhọn hai đầu. Họ mời ông Tứ ra nói chuyện riêng sau hè, rồi vào văn phòng, sau đó lại cho một đệ tử đứng xa xa nhìn xem sự kiện để có cớ báo lại thầy Mai theo kịch bản.
Sau hai tuần chịu trận, thầy Mai sụt hơn 5 kg, trông khủng khiếp. Buổi chiều lúc 5 giờ, tôi chờ mở cửa phòng, thầy Mai đi không vững, phải dìu thầy vào tắm rửa.
Mấy ngày sau, diễn viên thuật lại thêm bớt: “Em thấy ban quản giáo nói chuyện với Mục sư Tứ, thầy Tứ làm antent hại thầy – em nghe 100%.”
Thầy Mai tin như thiệt, nó hàng ngày thầy Mai nhờ vả. Thế là thầy Mai trút hết nghi ngờ cho tôi và thấy Phụng… Lúc đầu tôi hơi tin, chờ xem. Tháng sau tôi gặp thầy Tứ đề nghị hai thầy gặp nhau giải quyết chiến tranh lạnh.
Thầy Tứ Amen cao, thầy Mai thì lúc đầu Ok, sau đó quân sư quạt mo ngăn cản; thầy Mai lấy lý do sợ thầy Tứ lập mưu hại tiếp.
Tôi cố thuyết phục thầy Mai bởi đức tin phải gặp ba mặt một lời, để cả nhà tù nhìn hai mục sư kình địch ô danh Chúa quá. Các mục sư đồng lao cũng quá ngán ngẫm thầy Mai đa nghi như tào Tháo; thầy Tứ thì sống theo kiểu tù Đại ca ông nội.
Sau khi thầy Mai không chịu ngồi lại thông công giải quyết; tôi đánh giá thầy Mai không ngay thẳng thật lòng, tôi không còn tin như ban đầu. Đây là đòn ly gián của ma quỷ.
Thầy Mai loan tin ra ngoài, vợ thầy Mai thông báo cho Liên đoàn truyền giáo và các giáo sỹ “Thầy Tứ làm antent hại thầy Mai”. Rồi một số báo nước ngoài lên tin này.
Từ đây phe Tào Tháo mở trận Xích Bích với phe hợp tung Đông ngô “Lưu Bị – Tôn quyền” Hai quân sư quạt mo Khổng Minh, Chu Du kích hai bên cho cuộc chiến thêm sôi động. Đúng Sa-tan ma quỷ là cha của nói dối; anh em chúng ta lại tin chuyện huyễn hoặc hơn là tin nhau.
Thầy Tứ thì vô tư, thầy không biết chuyện gì xảy ra. Thầy Mai thì hàng ngày tưởng tượng đủ mọi chuyện do môn đồ Khổng Minh sáng tác cung ứng miễn phí cho thầy Mai tức khói chơi. Chúng tôi làm thùng rác nhận chất thải thầy Mai.
Hôm nay, tôi xin làm chứng nhân cho thầy Tứ: “Trước Chúa tôi nói lên đây hoàn toàn sự thật, chịu trách nhiệm lời chứng này – thầy Tứ không làm antent để hại thầy Mai biệt giam. Thầy Mai vu oan và đã xúc phạm danh dự thầy Tứ; việc thầy Mai bị biệt giam 2 lịnh 15 ngày là do thầy gởi thư lậu cho một phạm nhân mãn án.“
Chúng ta cầu nguyện để thầy Mai có lòng ăn năn, xin lỗi thầy Tứ; đính chính các nơi về việc này. Tôi sẽ làm chứng nhân, ngoài ra còn thầy Phụng , thầy H oanh, H hát đang ở Đà Lạt cùng biết rõ.
Khoảng 3 tháng sau, tam sư quyết đấu được trả tự do trước; chúng tôi ở lại yêu thương nhau, đùm bọc nhau, sống với nhau thật nhẹ nhàng khác thường. Đúng như tục ngữ dân gian: “Cha mẹ đánh nhau, con cái lãnh đủ”.
Lao động khổ sai, vai u chân cứng
Bất cứ loại tù nào khi nghe đến Tống Lê Chân đều có suy nghĩ “Mãn phần trước mãn án”. Họ muốn cải tạo chúng tôi bằng lao động khổ sai, và dùng tù hình sự dợt cho chúng tôi lễ độ. Hoặc sỉ nhục bằng cách cho làm Ô-sin nấu nước pha trà cán bộ chơi.
Chúng tôi học gương Phao-lô đã chấp nhận tù vì danh Chúa, thì phải chịu đựng khổ sai cho Pha-ra-ôn; không và không bao giờ chấp nhận “hàng thần lơ láo Từ Hải”.
Quý vị cứ tưởng tượng, trời Tống Lê Chân mùa hè nắng cháy da người; một giờ trưa ra công trường lao động. Một đội khoảng 30 người, dụng cụ lao động chỉ có giáo mác, cuốc xẻng; mà phải khai hoang xong một mẫu rừng hoang.
Khoảng 3 giờ rưỡi về trại, phải mang 7 cái cuốc 10 kg, đi bộ 7 km, tốc độ 5 km/giờ. Nhiều lần vác không nổi, phải nhờ anh em giúp trả tiền. Chịu hết nổi, ước mong về với Chúa ngay “để khỏi vất vả”.
Thời gian rồi cứ dần trôi, cuộc sống lao động khổ sai thì một ngày như mọi ngày, con người như người mọi. Lao nhục khổ hình từ từ cũng quen.
Bốn tháng trôi qua, tôi cùng 2 anh em tù chính trị chống chế độ từ Thái Lan vào. Chúng tôi làm một dàn mướp bên góc vườn, chiều lao động về, chúng tôi cùng anh Đà ra nấu trà rồi đàm đạo Phúc âm. Phải giảng chay không có Kinh Thánh. Anh Đà nghe mê say, cũng là niềm an ủi cho tôi. Tháng sau, chuẩn bị làm báp-tem cho anh.
Báp-tem trước mặt ban quản giáo và 400 tù nhân
Trước khi vào tù, tôi nghe các tôi tớ Chúa làm báp-tem cho ông Trung tướng Nguyễnhữu Có trong tù, bằng cách khi xuống giếng làm luôn chỉ có hai người biết.
Chúa cho tôi một sáng kiến, làm báp-tem giữa thanh thiên bạch nhật mà chẳng ai biết mình làm gì?
Tôi bảo anh Đà, cùng bơi ra ngoài ao (trước khi vào trại, tù nhân được tắm một ao lớn). Tôi nhân danh Cha – Con -Thánh Linh làm báp-tem cho anh; anh Amen. Xong hai chúng tôi cùng lặng xuống nước rồi bơi vào bờ.
Tôi bị bỏ sót
Sau khi ba mục sư: Mai – Tứ – Ái được trả tự do, như gánh nặng đã văng khỏi 5 anh em chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu sống chung chan hòa của tình yêu Cơ Đốc chân thật. Ngày thăm nuôi có bữa ăn chung, chia sẻ từng gói mì tôm, từng con khô thật ấm cúng. Tam quốc sư diển tập đã đến hồi kết.
Sáng chủ nhật lao động khổ sai
Thường ngày Chúa nhật toàn trại được nghỉ lao động, chờ thăm nuôi. Không gì vui được gặp gia đình lại được đồ ăn tươi. Tôi không may, bị đi làm lao động công ích cho cán bộ quản giáo. Tôi cùng một người tù chính trị nhổ cỏ lúa cho một quản giáo. Đến 10 giờ sáng, nhìn ra ngoài thấy từng đoàn người thăm nuôi với từng bao đồ ăn. Nước mắt tôi tự nhiên chảy thành dòng; tôi nhớ lại Thi thiên 42:
“3 Đương khi người ta hằng hỏi tôi: Đức Chúa Trời ngươi đâu?
Thì nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm.
4 Xưa tôi đi cùng đoàn chúng,
Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời,
Có tiếng reo mừng và khen ngợi…
Một đoàn đông giữ lễ;
Rày tôi nhớ lại điều ấy, và lòng buồn thảm.“
Tôi nhớ vợ, nhớ anh em, nhớ buổi nhóm, nhớ đủ thứ… Giờ không có thăm nuôi, không được nghỉ ngơi giãn xả, lại phải lao động khổ sai, bữa cơm trưa chỉ có 2 chén nhỏ cùng con khô với mấy cọng rau rừng… Lòng nặng trĩu, nước mắt tuông lúc nào không hay.
Vợ tôi cũng chịu tù như tôi: gia đình hai bên xấu hổ
Tôi là lao động chính trong gia đình. Bây giờ vợ tôi tự lo bản thân, lại phải thăm nuôi tôi hàng tháng. Gia đình hai bên thì không ai ưa tôi.
Bên vợ thì theo Đa hệ phái, chính là CM&A; họ xem tôi là thày lay, tự dấy lên thích làm đầu, không thích tư gia. CM&A thì nói chúng tôi là tà giáo.
Vợ tôi bán áo quần ở lầu 2 chợ Tân Bình. Vốn không có, hàng lại cũ, không cạnh tranh được. Vợ tôi đến người chị Hai, chị ruột bên vợ mượn một chỉ vàng làm vốn. Chỉ trả lời: “mầy mượn lấy gì mà trả. Mầy ra làm thuê cho tau.”
Vợ tôi về chỉ ôm mặt khóc ròng với Chúa… Nhưng nghèo quá, lại phải thăm nuôi , đành chấp nhận làm Ô-sin cho Pha-ra-ôn thời đại.
Đồ thăm nuôi tôi như thế nào, thì vợ tôi ăn như thế đó. Chủ yếu là mắm ruốt kho mặn với thịt ba rọi hay có cờ; rau muống mì tôm.
Hàng ngày vợ tôi phải ra tận Q1, làm thuê cho chị Hai. Chị Hai và các con chị đối xử với vợ tôi không khác Pha-ra-ôn đối với Y-sơ-ra-en. Nước mắt chồng nước mắt: khóc thì hổ ngươi, cười ra nước mắt. Chị Hai thì rất hào hiệp với các mục sư truyền đạo; còn chị em ruột, bà muốn cho học bài nhịn nhục để biết trông cậy Chúa, đức tin và tình yêu thương của chi Hai vợ tôi thật độc đáo…. Cám ơn Chúa vợ tôi chịu đựng được gần 5 tháng với kinh nghiệm cơm trộn nước mắt. Tôi tù kín, vợ tôi tù lỏng.
Cám ơn Chúa đã luyện tập vợ chồng tôi bài học đức tin và sự trông cậy; có những lúc trông cậy điều không còn cậy trông, nói như Sứ đồ Phi-e-rơ “Bỏ Ngài con biết theo ai… Vì Ngài có lời ban sự sống.” Nếu có Đấng nào tốt hơn Chúa, có lẽ chúng ta xét lại hết… vì có những lúc theo Chúa như mỉa mai, trái ngang cuộc đời…
Ngày về không còn chiếc quần
Hơn 7 tháng Tống Lê Chân: đau thương tủi hờn đủ bài. Chúa biết sức chịu đựng chúng tôi bao nhiêu!
Trước đó 10 ngày, công an bộ lên thăm chúng tôi, động viên khi ra khỏi tù thì đừng truyền đạo nữa, khuyến khích chúng tôi viết đơn cám kết bỏ truyền đạo… Chúng tôi từ chối viết, và sẵn sàng ở tù, không chịu làm kiếp hàng thần Từ Hải.
Được biết giữa năm 1992, Thủ tướng Nguyễn Văn Kiệt trong chuyến công du Châu âu, hội nhân quyền quốc tế can thiệp, ông Kiệt đã chấp nhận thả chúng tôi và một số tù chính trị.
Qua giữa năm 1993, Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký lịnh, thả chúng tôi ra vô điều kiện.
Như mọi ngày, chúng tôi ra sân chuẩn bị lao động. Ban giám thị trại cầm một xấp giấy đọc trước mọi người, chúng tôi được thả tự do… Chúa ơi, cảm giác sung sướng không thể mô tả bằng lời… Chỉ biết lớn tiếng cám ơn Chúa, cảm tạ Chúa, chúng tôi la lớn, Chúa đã giải cứu… Anh em tù nhân vào phòng trước chúng tôi, lấy hết vật dụng. Tôi chỉ còn chiếc quần đi lao động. Sau đó thầy Phụng cho mượn chiếc quần tây về nhà trả lại…
Hơn 2 năm xa cách thành phố, H oanh, H hat, anh Đà tù chính trị đến nhà tôi; vợ tôi đi vắng, chị tôi tặng tôi một câu: sướng chưa ! ai bảo làm chuyện thày lay… Số tiền , nhà nước cho tiền xe, tôi mời anh em ra ăn cháo lòng hết sạch.
Chúng tôi rủ nhau thăm thầy Mai. Thầy Mai rất vui, cho chúng tôi mỗi người 200 ngàn (gần 1 chỉ vàng).
Tuần sau, chánh văn phong công an bộ, mời tôi lên đàm đạo theo nghiệp vụ của họ. Anh tiếp tôi tại văn phòng rất lịch sự, mời cà-phê như thượng khách…
Câu hỏi đầu tiên: “Có nhiều người quan tâm việc nhà nước khoan hồng thả chúng tôi ra không? Đặc biệt có giáo sỹ nào thăm hỏi giúp đỡ tài chánh không?” Đó là nghiệp vụ họ phải làm thôi.
Tôi trả lời: “Cám ơn đảng đã cho tôi vào tù, giờ chúng tôi thành nhân vật quan trọng. Trước đây tôi chỉ là đất sét, giờ tự nhiên thành ông bụt bất đắc dĩ”. Nhờ vào tù với lao động khổ sai, sức khỏe tôi mạnh lên khác thường. Đúng Chúa cho đi huấn nhục để đủ sức chịu đựng gió sương, “nguy trên sông, biển.. và cả anh em giả dối“.
Tuần sau, con đường xưa em lại phải đi, “tiếp tục lượm ve chai – làm nghề dân biểu” thăm lại khách hàng bán dây Honda.
Công an lại nghi tôi là một nhân vật nguy hiểm “nhân vật quan trọng, đóng vai khổ nhục kế”. Thời đểm này các phong trào chống đối tràn lan; đỉnh điểm của chiến dịch “Diễn tiến hòa bình”. Họ rất sợ những tu sỹ tôn giáo.
Vô hình chung tôi trở thành VIP bất đắc dĩ, được theo dõi quá kỹ. Thư mời từ tổ dân phố, đến phường, quận, thành phố, cả bộ như “Đến hẹn lại lên không nhớ hết…” Vừa làm dân biểu cho khách hàng, vừa làm tù tại chỗ. Có lúc như muốn phản loạn chống lại để vào tù tiếp đỡ căng thẳng.
Dưới ngòi bút sinh viên văn khoa thời nào của Ms Thắng đọc qua đọc lại thấy hấp dẫn không thua gì truyện trinh thám hay đọc lịch sử vậy. Mong thêm nhiều chuyện hay thâm cung bí sử của các quan…trong Hội thánh… Chúa an ủi và ở cùng ông.
Hãy rút lại bài này vì đừng đoán xét ai
Tôi nói lên sự thật, đó không phải đoán xét
Ông Nguyễn Bá tài, Đoàn Như Sĩ, Nguyễn Huệ Nhật bây giờ ra sao? Bà Muộn vợ ông Nhật mới chết được nhà thờ Phạm Thế hiển làm lễ báo tang và đọc tiểu sử sao không giống như ông Nhật nói?
tình yêu thương không vui với sự không công bình – phải nói lẽ chân thật. Tôi không thêm bớt- tôi nói sự thật
Đừng phán xét ai để không bị xét đoán
Hi Nguyên duy Thắng
Đây là Liêm , dạy học chung với ông trong những năm 80
ở An Nhơn Tây
Liên lạc với tôi
Liemluong14@mail.com
Thưa em Duy Thắng quê nhà.
Bao năm xa cách tưởng là khó quên.
Nhờ internet gần bên.
Mình trao nhau chút “tình duyên nợ đời”.
Tựu chung cũng chỉ Ơn Trời.
Ngài cho ta sống làm người với nhau.
Nếu không có Đấng Ban Đầu.
Dựng nên vũ trụ nhiệm mầu xưa nay.
Thì ai hiểu thấu chuyện nầy.
Lăng nhăng chuyện nọ chốn nầy chốn kia?
Người uống rượu, kẻ uống bia.
Người theo Phật Tổ, kẻ về quỷ ma.
Anh em mình tự một Cha.
Là Đấng Tạo Hóa tạo ra vũ hoàn.
Nắn nên thân thể vẹn toàn.
Dệt nên linh tánh ân ban làm người.
Được Ngài thương xót hà hơi.
Thiêng liêng ân sũng tiếp đời mẹ cha.
Lớn lên theo đạo Ông Bà.
Quy y Phật Giáo như là phật con.
Thế nhưng hồn vẫn mỏi mòn.
Điều hay điều đúng vuông tròn méo mo.
Tuổi thơ khờ dại khôn dò.
Lớn lên bỡ ngỡ những trò giáo gian.
Phước thay ân điển không hàn.
Lương tâm thiên tạo ân ban tự Trời.
Phước Âm vốn tự Ngôi Lời.
Đem lòng tin kính nên đời ta vui.
Dù cho cuộc thế ngậm ngùi.
Nay làm con thánh ngọt bùi xẻ chia.
Đức tin mầu nhiệm trăm bề.
Và rất thực tế trở về yêu thương.
Cuộc đời vốn dĩ vô thường.
Vì chưng tội lỗi ngọn nguồn vô minh.
Nhưng người tiếp nhận đức tin.
Trong Danh Cứu Thế tái sanh con Trời.
Nguyễn Duy Thắng vẫn mĩm cười.
Vui mừng cảm tạ Ngôi Lời Jesus.
Huệ Nhật xưa có đi tu.
Nhưng mà tội lỗi mịt mù sương mây.
Bây giờ ngay phút giây nầy.
Chúa ban tha thứ đổi thay tấm lòng.
Chúng ta chắc chắn nằm lòng.
Ăn năn tội lỗi, ân hồng thứ tha.
Một mai về cõi thiên hà.
Vĩnh hằng phước hạnh bên Cha Thiên Đàng.
Bây giờ ca hát vang vang.
Dẫu cho cuộc thế trái ngang thường tình.
Chúng ta vui giảng Tin Lành.
Cứu người sa ngã bên ghềnh Sa-tăng.
Đọc xong Duy Thắng thấy… vui.
Mà sao vẫn cứ ngậm ngùi băn khoăn.
Xa quê nhớ bạn cằng nhằng.
Ở bên Phú Nhuận hai thằng cãi nhau.
Cờ xanh, vàng, đỏ ba màu.
Tháng Tư, Ba Chục quá ngầu Bảy Lăm.
Mới đây hơn bốn chục năm.
Ngắn như thoáng chốc xa xăm mít mù.
Trở về trong Chúa Jesus.
Thấy ra mình đã bị tù quá lâu.
Nước mắt không để giải sầu.
Vui mừng chảy suốt từ đầu đến chân.
Trước hết cám on Người anh em yêu dấu đã đoái thương đến hiền đệ mới ngày nào giờ đã 40 năm…. 40 năm biết bao thay đổi tưởng như giấc mơ “Kinh Kha sang Tần – Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần” . Đúng quả đất tròn, Đấng Toàn năng tuyệt vời khôn xiết.
Tháng trước tôi gặp lại người chị em yêu dấu… và câu con trai của anh ” không còn nhớ được” tại Vũng Tàu.
Rất vui những vầng thơ ngày nào vẫn còn lai láng như nước sông Cữu Long chãy hoài ra đại dương.
Rất cám ơn những vầng thơ . Nhớ Bùi Giáng.
Em nằm dưới lá trong mơ
Nữa đêm nằm mộng thấy ngày hôm qua
Môi nào ở cuối sân Ga
Phố nào phố quận xưa đà tiễn nhau”
Rất mong có ngày gặp anh ơ Hoa Kỳ.
Nhà em đã về với Chúa ngày 2/5 216.